Nghe pháp thoại: TĐ:2897-Chỗ nương dựa trong thời mạt pháp
TĐ:2897-Chỗ nương dựa trong thời mạt pháp
Danh sách phát:[2801~3000]
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa:
[Tinh Hoa Khai Thị 菁華開示 ]
*Trích đoạn:Tịnh Độ Đại Kinh, giải diễn nghĩa : tập, 309
*Thời gian từ: 01h43:23:18 – 01h56:49:12
OneDrive-Download (Audio) (pháp âm)
Text (văn bản,tài liệu) Video (Phim)
Nguồn Hoa Ngữ:
Download Video(Phim) Hoạt Hình 3D [Thiên Đình Tiểu Tử 01~13 (14~26 tập còn tiếp)- Phụ đề Việt ngữ].mp4
Bài giảng:
Ai biết được căn tánh của chúng ta? Nếu tự mình không có năng lực lựa chọn, cũng không gặp được thiện tri thức. Như vậy thì thật khó. Nhưng đức Phật rất từ bi, đối với người đời sau chỉ ra một phương hướng lớn. Trong Đại Tập Kinh nói, thời kỳ chánh pháp giới luật thành tựu. Thời kỳ tượng pháp thiền định thành tựu. Thời kỳ mạt pháp tịnh độ thành tựu. Tổng thể như vậy thì không có vấn đề gì lớn.
Thời kỳ chánh pháp là tại Ấn Độ. Phật pháp truyền đến Trung quốc là tượng pháp. Giai đoạn cuối của thời kỳ chánh pháp và bắt đầu thời kỳ tượng pháp. Nên thiền phong của Trung quốc rất hưng thịnh. Thật vậy, thiền ở Trung Quốc hưng thịnh 1000 năm, bây giờ không còn nữa. Thời kỳ mạt pháp tịnh độ thành tựu. Chiếu theo ghi chép của lịch sử Trung quốc, Đức Thế Tôn diệt độ đến nay là 3038 năm. Năm nay là 3038 năm. Phật pháp truyền đến Trung quốc đã 2000 năm, năm 670 công nguyên, năm Vĩnh Bình thứ mười đời Hán Minh Đế. Đế vương Trung quốc phái đặc sứ đến Tây Vực chính thức cung thỉnh Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Hai vị này là tu sĩ của Ấn Độ, mang theo tượng Phật, kinh sách đến Trung quốc. Đế vương Trung quốc tiếp nhận, xây dựng một ngôi chùa cho họ gọi là Chùa Bạch Mã. Kỷ niệm Bạch Mã đã chở tượng và kinh Phật. Người xưa nhân từ, không thể quên ân đức của con ngựa này. Kinh sách, tượng Phật đều do nó chở đến. Chùa Bạch Mã là đạo tràng đầu tiên thành lập ở Trung quốc, là năm 670 công nguyên. Đến năm 2067 là 2000 năm, còn thiếu một chút nữa là 2000 năm. Nên Phật pháp truyền đến Trung quốc là thời kỳ tượng pháp.
Tượng pháp 1000 năm là thiền định thành tựu. Sau tượng pháp chính là thời kỳ mạt pháp. Mạt pháp một vạn năm tịnh độ thành tựu. Mạt pháp đã qua 1000 năm, chúng ta bây giờ là mạt pháp. Bắt đầu của giai đoạn ngàn năm thứ hai, năm nay là 38 năm.
Không biết căn tánh của chính mình, thì nên tuân thủ đoạn khai thị của Đức Thế Tôn trong Kinh Đại Tập. Chúng ta lựa chọn Tịnh độ, như vậy là đúng. Căn cứ theo chỉ thị của Thế Tôn, chúng ta sanh vào thời kỳ mạt pháp nên chọn pháp môn tịnh độ, chắc chắn sẽ không sai. Bộ kinh này, bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ, xuất hiện ở ngày nay, ở thời đại này. Kinh sách này cách chúng ta khoảng 70 năm. 70 năm trước, cư sĩ Hạ Liên Cư dùng thời gian mười năm, hoàn thành việc lớn này. Đây là một đại sự nhân duyên. Con người của 9000 năm về sau trong thời kỳ mạt pháp dựa vào điều gì? Nhất định nương vào bộ kinh này. Bộ kinh này là năm bản dịch của kinh Vô Lượng Thọ. Đem nó hợp lại biên tập thành một bản mới.
Đọc bản kinh này đồng nghĩa với đọc được hết cả năm loại bản dịch. Đây là cuốn sách tốt nhất của Tịnh độ. Người bây giờ có phước mới gặp được. Người tu tịnh độ ngày xưa, vì năm loại bản dịch quá nhiều, khi đọc không dễ dàng lắm. Nên mọi người đều chọn tiểu bổn kinh A Di Đà. Dựa vào Sớ Sao của Liên Trì Đại sư và Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư, làm chỗ dựa chủ yếu nhất để tu học tịnh độ tông. Sau khi bản hội tập này xuất bản, chỗ dựa thật sự đã xuất hiện. Tịnh độ đệ nhất kinh tên gọi thật phù hợp. Liền theo đó là chú giải của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Có kinh, có chú giải.
Trước đây tôi có viết cho bộ kinh này một phần khoa phán. Cư sĩ Triệu Bộc Sơ rất tán thán, bản hội tập đã thành tựu. Khoa hội đã thành tựu, chú giải đã thành tựu, thật không có gì vui bằng. Tịnh độ tông sau này hứa hẹn một sự xán lạn. Ánh sáng từ bi của Phật phổ chiếu khắp nơi.
Chúng ta hôm nay, ngay lúc này và ở đây. Mọi người cùng nhau học tập. Nhân duyên này vô cùng thù thắng hy hữu khó gặp. Thật là trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được. Quan trọng nhất là có nhận thức chính xác đối với bộ kinh này. Thật sự có thể lý giải nó và y giáo phụng hành, trong đời này nhất định thành tựu. Nên chánh định rất quan trọng.
Đọc thêm …
tinh do phap am,tinhdophapam,phapamtinhdo,tịnhđộ kinh,amitabha,tịnh độ đại kinh,pháp sư tịnh không,tây phương cực lạc,kinh hoa nghiêm,kinh vo luong tho,tịnh độ,đạo phật,bài giảng,pháp thoại,phat giao,phật dạy,thuyết pháp,thuyet phap hay,bài giảng hay,bài giảng phật giáo,phật pháp,phật thuyết,truyện phật giáo,tìm hiểu phật giáo,adidaphat,buddha,buddhist,loi phat day,kinh đại phương quảng phật,hoa nghiem,tinh hanh
Xem thêm: https://www.thuyetphap.net/thuyet-phap
Tịnh Độ Pháp Âm says
2897-Chỗ nương dựa trong thời mạt pháp
01h43:23:18 – 01h56:49:12
Ai biết được căn tánh của chúng ta? Nếu tự mình không có năng lực lựa chọn, cũng không gặp được thiện tri thức. Như vậy thì thật khó. Nhưng đức Phật rất từ bi, đối với người đời sau chỉ ra một phương hướng lớn. Trong Đại Tập Kinh nói, thời kỳ chánh pháp giới luật thành tựu. Thời kỳ tượng pháp thiền định thành tựu. Thời kỳ mạt pháp tịnh độ thành tựu. Tổng thể như vậy thì không có vấn đề gì lớn.
Thời kỳ chánh pháp là tại Ấn Độ. Phật pháp truyền đến Trung quốc là tượng pháp. Giai đoạn cuối của thời kỳ chánh pháp và bắt đầu thời kỳ tượng pháp. Nên thiền phong của Trung quốc rất hưng thịnh. Thật vậy, thiền ở Trung Quốc hưng thịnh 1000 năm, bây giờ không còn nữa. Thời kỳ mạt pháp tịnh độ thành tựu. Chiếu theo ghi chép của lịch sử Trung quốc, Đức Thế Tôn diệt độ đến nay là 3038 năm. Năm nay là 3038 năm. Phật pháp truyền đến Trung quốc đã 2000 năm, năm 670 công nguyên, năm Vĩnh Bình thứ mười đời Hán Minh Đế. Đế vương Trung quốc phái đặc sứ đến Tây Vực chính thức cung thỉnh Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Hai vị này là tu sĩ của Ấn Độ, mang theo tượng Phật, kinh sách đến Trung quốc. Đế vương Trung quốc tiếp nhận, xây dựng một ngôi chùa cho họ gọi là Chùa Bạch Mã. Kỷ niệm Bạch Mã đã chở tượng và kinh Phật. Người xưa nhân từ, không thể quên ân đức của con ngựa này. Kinh sách, tượng Phật đều do nó chở đến. Chùa Bạch Mã là đạo tràng đầu tiên thành lập ở Trung quốc, là năm 670 công nguyên. Đến năm 2067 là 2000 năm, còn thiếu một chút nữa là 2000 năm. Nên Phật pháp truyền đến Trung quốc là thời kỳ tượng pháp.
Tượng pháp 1000 năm là thiền định thành tựu. Sau tượng pháp chính là thời kỳ mạt pháp. Mạt pháp một vạn năm tịnh độ thành tựu. Mạt pháp đã qua 1000 năm, chúng ta bây giờ là mạt pháp. Bắt đầu của giai đoạn ngàn năm thứ hai, năm nay là 38 năm.
Không biết căn tánh của chính mình, thì nên tuân thủ đoạn khai thị của Đức Thế Tôn trong Kinh Đại Tập. Chúng ta lựa chọn Tịnh độ, như vậy là đúng. Căn cứ theo chỉ thị của Thế Tôn, chúng ta sanh vào thời kỳ mạt pháp nên chọn pháp môn tịnh độ, chắc chắn sẽ không sai. Bộ kinh này, bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ, xuất hiện ở ngày nay, ở thời đại này. Kinh sách này cách chúng ta khoảng 70 năm. 70 năm trước, cư sĩ Hạ Liên Cư dùng thời gian mười năm, hoàn thành việc lớn này. Đây là một đại sự nhân duyên. Con người của 9000 năm về sau trong thời kỳ mạt pháp dựa vào điều gì? Nhất định nương vào bộ kinh này. Bộ kinh này là năm bản dịch của kinh Vô Lượng Thọ. Đem nó hợp lại biên tập thành một bản mới.
Đọc bản kinh này đồng nghĩa với đọc được hết cả năm loại bản dịch. Đây là cuốn sách tốt nhất của Tịnh độ. Người bây giờ có phước mới gặp được. Người tu tịnh độ ngày xưa, vì năm loại bản dịch quá nhiều, khi đọc không dễ dàng lắm. Nên mọi người đều chọn tiểu bổn kinh A Di Đà. Dựa vào Sớ Sao của Liên Trì Đại sư và Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư, làm chỗ dựa chủ yếu nhất để tu học tịnh độ tông. Sau khi bản hội tập này xuất bản, chỗ dựa thật sự đã xuất hiện. Tịnh độ đệ nhất kinh tên gọi thật phù hợp. Liền theo đó là chú giải của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Có kinh, có chú giải.
Trước đây tôi có viết cho bộ kinh này một phần khoa phán. Cư sĩ Triệu Bộc Sơ rất tán thán, bản hội tập đã thành tựu. Khoa hội đã thành tựu, chú giải đã thành tựu, thật không có gì vui bằng. Tịnh độ tông sau này hứa hẹn một sự xán lạn. Ánh sáng từ bi của Phật phổ chiếu khắp nơi.
Chúng ta hôm nay, ngay lúc này và ở đây. Mọi người cùng nhau học tập. Nhân duyên này vô cùng thù thắng hy hữu khó gặp. Thật là trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được. Quan trọng nhất là có nhận thức chính xác đối với bộ kinh này. Thật sự có thể lý giải nó và y giáo phụng hành, trong đời này nhất định thành tựu. Nên chánh định rất quan trọng.
Thứ tư là phát tâm cứu tất cả chúng sanh. Đây chính là trong tứ hoằng thệ nguyện, “Chúng sanh vô biên thề nguyện độ”. “Thượng Pháp Hoa vân thành tựu tứ pháp, đương đắc Pháp Hoa kinh”. Điều này trong kinh Pháp Hoa nói. Nếu thành tựu bốn pháp này sẽ đạt được kinh Pháp Hoa. Cũng chính là nói, chúng ta sẽ đạt được đại kinh để một đời thành Phật. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa cuối cùng đều quy về Tịnh độ. Tôi học Phật quy y Tịnh độ, là nhờ ba bộ kinh dẫn dắt tôi trở về tịnh độ. Thứ nhất là Hoa Nghiêm, thứ hai là Lăng Nghiêm, thứ ba là kinh Pháp Hoa.
Trước đây tôi có giảng đại ý Kinh Pháp Hoa, 60 tiếng đồng hồ. Có lưu lại băng ghi âm nhưng không có băng ghi hình, hình như là khoảng hơn 30 năm trước. Đặc biệt là 53 lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm, và chương Viên Thông thứ 25 trong kinh Lăng Nghiêm. Nhờ vậy mà tôi đã chân thật nhận thức được Tịnh độ, biết được Tịnh Độ vô cùng thù thắng, nên thật sự phát tâm học tập.
Tuấn Đăng says
A DI ĐÀ PHẬT
Tuấn Đăng says
A DI ĐÀ PHẬT
Hoa Duong says
Nam mô ADi Đà phật🙏🙏🙏
Nguyễn Thúy says
Con thật may mắn gặp dc pháp môn tịnh độ và gặp dc ân sư giảng dạy mỗi ngày ạ
Kim thi Pham says
Nam mo a di da phat.
serena nguyen says
A Di Đà Phật. A Di Đà Phật. A Di Đà Phật. A Di Đà Phật. A Di Đà Phật.
Phòng chống trầm cảm và tự sát says
Nam mo A Di Da Phat
A Di Đà Phật says
Nam Mô A Di Đà Phật
Nguyện cho kẻ thấy người nghe Thân tâm thường an lạc,, phá mê Khai ngộ, lìa khổ được vui Cầu sanh tịnh độ.
Thanh Ba says
Nam mô A Di Đà Phật. Trung Quốc Thời mạc pháp 1,4 tỷ dân tu pháp môn khác chưa ai chứng đắc huốn chi đất nươc VN có 90 triệu làm sao có người chứng đắc, ngày nay giáo pháp trong chùa con thấy rất ít có pháp môn Tịnh Độ để tu xuất thế, lục đạo không có gì luyến tiết. Nam mô thầy Pháp Sư Tịnh Không.
Hoa Nhuận says
A Mi Đà Phật
A Mi Đà Phật
Mộ Đạo says
A di đà phật.
Hoa Nhuận says
A Mi Đà Phật
A Mi Đà Phật
A Mi Đà Phật