Nghe pháp thoại: TĐ:2040-Người không “biết đủ” tuy giàu mà nghèo , người hay “biết đủ” tuy nghèo mà giàu
TĐ:2040-Người không “biết đủ” tuy giàu mà nghèo , người hay “biết đủ” tuy nghèo mà giàu
Danh sách phát:[2001~2200]
Danh sách phát:1801~2000]
Danh sách phát:1601~1800]
Danh sách phát:1401~1600]
Danh sách phát:1201~1400]
Danh sách phát:[1101~1200]
Danh sách phát:[0901~1100]
Danh sách phát:[701~900]
Danh sách phát:[501~700]
Danh sách phát:[301~500]
Danh sách phát:[001~300]
Danh sách phát~1: [Trọn bộ 02-039- 001~300]
Danh sách phát~2: [Trọn bộ 02-039- 301~600]
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa:
[Tinh Hoa Khai Thị 菁華開示 ] Trích đoạn:TĐĐK ~ tập, 286
Thời gian từ: 01h11:22:26 – 01h30:03:01
OneDrive-Download (Audio) (pháp âm)
Text (văn bản,tài liệu) Video (Phim)
Nguồn Hoa Ngữ:
Download Video(Phim) Hoạt Hình 3D [Thiên Đình Tiểu Tử 01~13 (14~26 tập còn tiếp)- Phụ đề Việt ngữ].mp4
Bài giảng:
“người có thiểu dục tức có niết bàn”, đây là thiểu dục. Niết bàn là bất sanh bất diệt, niết bàn là rốt ráo viên mãn. Trong kinh giáo Đại thừa phiên dịch nó thành viên tịch. Viên là công đức viên mãn, tịch là thanh tịnh tịch diệt. Chỉ có thanh tịnh tịch diệt, trí tuệ đức tướng trong tự tánh, quí vị đều dùng được, đây là ý nghĩa của chữ viên.
Dưới đây nói tiếp: “nhữ đẳng tỳ kheo”. Tỳ kheo là tiếng Phạn, xưng hô của đệ tử xuất gia Phật Giáo. “Nếu muốn thoát khỏi các khổ não, nên quán tri túc, pháp của tri túc tức là nơi phú lạc an ổn”. Đây là Phật ở trong Kinh Di Giáo khuyên dạy đệ tử. Sự dạy học của đức Phật Thích Ca Mâu Ni bản thân Ngài đã làm được trước rồi.
Người thế gian ở trong xã hội này cầu chức vị cao, cầu đại phú quý, cầu niềm vui của ngũ dục lục trần, họ cầu những thứ này. Cùng những thứ này sanh khởi lên chính là tham, sân, si, mạn, nghi, căn bản phiền não. Phật Thích Ca Mâu Ni đem những thứ này xả bỏ hết. Ngài xuất thân là vương tử, nếu như không xuất gia Ngài làm quốc vương. Mười chín tuổi xả bỏ vương vị, Ngài ra đi tham học, trong mười hai năm tham học Ngài thực sự thiểu dục tri túc.
Tôn giáo Ấn độ rất phát triển, người tu khổ hạnh rất nhiều. Những người tu khổ hạnh này đều được xã hội đại chúng kính ngưỡng tôn trọng. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bắt đầu sống cuộc sống khổ hạnh tăng, ngày ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây, không phải là sau khi thành đạo, 19 tuổi lúc bắt đầu cầu học đã làm như vậy rồi. Xả bỏ cuộc sống xa xỉ, giàu có trong hoàng cung để đi làm tăng khổ hạnh. Tham học 12 năm Ngài rèn luyện được rồi, dưới cội bồ đề đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, 30 tuổi bắt đầu dạy học. Dạy 49 năm, 79 tuổi viên tịch. Trong kinh thường nói một đời giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm. Hơn 300 hội này dùng cách nói hiện tại là mở các hoạt động, mở hoạt động học tập, một đời có hơn 300 lần. Có những hoạt động lớn đến mấy năm, có hoạt động nhỏ vài ngày, năm ba ngày, tùy duyên, ở nơi nào mời thỉnh Ngài liền đến nơi đó, không có nơi ở cố định.
Đọc thêm …
tinh,do,phap,am,phap am tinh do,tịnh độ kinh,amitabha,tịnh độ đại kinh,pháp sư tịnh không,tây phương cực lạc,kinh hoa nghiêm,kinh vo luong tho,tịnh độ,đạo phật,bài giảng,pháp thoại,phat giao,phật dạy,thuyết pháp,thuyet phap hay,bài giảng hay,bài giảng phật giáo,phật pháp,phật thuyết,truyện phật giáo,tìm hiểu phật giáo,nam mô a di đà phật,buddhism,buddha,buddhist,loi phat day,kinh,đại,phương,quảng,phật,hoa,nghiêm’Tịnh,Hạnh’
Xem thêm: https://www.thuyetphap.net/thuyet-phap
Tịnh Độ Pháp Âm viết
2040-Người không “biết đủ” tuy giàu mà nghèo , người hay “biết đủ” tuy nghèo mà giàu
01h11:22:26 – 01h30:03:01
“người có thiểu dục tức có niết bàn”, đây là thiểu dục. Niết bàn là bất sanh bất diệt, niết bàn là rốt ráo viên mãn. Trong kinh giáo Đại thừa phiên dịch nó thành viên tịch. Viên là công đức viên mãn, tịch là thanh tịnh tịch diệt. Chỉ có thanh tịnh tịch diệt, trí tuệ đức tướng trong tự tánh, quí vị đều dùng được, đây là ý nghĩa của chữ viên.
Dưới đây nói tiếp: “nhữ đẳng tỳ kheo”. Tỳ kheo là tiếng Phạn, xưng hô của đệ tử xuất gia Phật Giáo. “Nếu muốn thoát khỏi các khổ não, nên quán tri túc, pháp của tri túc tức là nơi phú lạc an ổn”. Đây là Phật ở trong Kinh Di Giáo khuyên dạy đệ tử. Sự dạy học của đức Phật Thích Ca Mâu Ni bản thân Ngài đã làm được trước rồi.
Người thế gian ở trong xã hội này cầu chức vị cao, cầu đại phú quý, cầu niềm vui của ngũ dục lục trần, họ cầu những thứ này. Cùng những thứ này sanh khởi lên chính là tham, sân, si, mạn, nghi, căn bản phiền não. Phật Thích Ca Mâu Ni đem những thứ này xả bỏ hết. Ngài xuất thân là vương tử, nếu như không xuất gia Ngài làm quốc vương. Mười chín tuổi xả bỏ vương vị, Ngài ra đi tham học, trong mười hai năm tham học Ngài thực sự thiểu dục tri túc.
Tôn giáo Ấn độ rất phát triển, người tu khổ hạnh rất nhiều. Những người tu khổ hạnh này đều được xã hội đại chúng kính ngưỡng tôn trọng. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bắt đầu sống cuộc sống khổ hạnh tăng, ngày ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây, không phải là sau khi thành đạo, 19 tuổi lúc bắt đầu cầu học đã làm như vậy rồi. Xả bỏ cuộc sống xa xỉ, giàu có trong hoàng cung để đi làm tăng khổ hạnh. Tham học 12 năm Ngài rèn luyện được rồi, dưới cội bồ đề đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, 30 tuổi bắt đầu dạy học. Dạy 49 năm, 79 tuổi viên tịch. Trong kinh thường nói một đời giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm. Hơn 300 hội này dùng cách nói hiện tại là mở các hoạt động, mở hoạt động học tập, một đời có hơn 300 lần. Có những hoạt động lớn đến mấy năm, có hoạt động nhỏ vài ngày, năm ba ngày, tùy duyên, ở nơi nào mời thỉnh Ngài liền đến nơi đó, không có nơi ở cố định.
Sau khi viên tịch những vị học trò này cùng tụ hội lại, tôn giả Ca Diếp chủ trì, ngài A Nan đứng ra đảm nhận giảng lại để kết tập kinh tạng. Phật trong 49 năm thuyết pháp Ngài A Nan đều nghe hết, giảng lại một lần, đại chúng đem nó ghi chép lại, trở thành văn tự lưu lại cho hậu thế, đây chính là nguồn gốc của kinh Phật.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni năm xưa tại thế giảng kinh, không có bản thảo, không có văn tự, tùy khẩu tự thuyết, ngày ngày không gián đoạn. Đây là bản lai diện mục mà Thế Tôn năm xưa tại thế dạy học. Thực sự là vạn duyên buông bỏ, nhất tâm dạy học, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Ngài làm ra tấm gương sáng cho chúng ta noi theo, dạy chúng ta phải thiểu dục, dạy chúng ta phải tri túc, dạy chúng ta phải trì giới, dạy chúng ta phải chịu khổ, lấy khổ làm thầy. Vì sao vậy? Cam tâm tình nguyện sống cuộc sống kiểu này, tâm là định, không có tâm tham, không có sân nhuế, không có ngu si, không có ngạo mạn, không có tật đố. Tâm này thiện biết bao. Tâm thiện thân liền thiện, thân thể sẽ tốt, đây là cảnh tùy tâm chuyển.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni một đời du hóa, nơi nào thỉnh Ngài, Ngài liền đến nơi đó, ở nơi nào giảng kinh thì nơi đó có phước báo, liền có thể giúp nơi đó hóa giải thiên tai. Không phải là thích đi, khắp nơi đi cứu tai cứu nạn, không có ai biết, từ bi đến tột cùng. Một đời chưa từng vì bản thân, toàn vì người khác.
“Người tri túc tuy nằm trên đất vẫn thấy an lạc”. Điều này Ngài làm được rồi, mỗi đêm đến Ngài ngủ đều nằm trên đất, nhưng Phật là ngồi, Ngài không phải nằm. Phật ở dưới gốc cây ngồi thiền, chúng đệ tử mỗi mỗi cũng đều có công phu thiền định như vậy.
Dưới đây nói, “người không biết tri túc, tuy ở thiên đường cũng không vừa ý”. Đây là sự thật. Người không biết tri túc họ có địa vị cao bao nhiêu, tài sản lớn bao nhiêu cũng không biết đủ, vẫn muốn nhiều hơn. Cho nên họ có khổ não, họ có phiền não, cầu bất đắc khổ. Cầu bất đắc khổ sẽ đem lại cho quí vị lão bệnh tử khổ. Quí vị lo lắng, quí vị phiền não, buồn bực, tâm tình bất an. Vậy ngày tháng của quí vị sẽ trải qua rất đau khổ rồi.
Người không tri túc, tuy giàu mà nghèo, người biết tri túc tuy nghèo mà giàu. Có tài sản cả ức vạn ngày ngày vẫn nghĩ đến việc kiếm tiền, họ là người nghèo, người nghèo mới cần lo lắng đến việc này. Người tri túc một tháng có thể kiếm được chút tiền, có thể sống qua ngày, mãn túc rồi.
Tôi ở Indonesia, Indonesia tôi đến 11 lần, bạn bè rất nhiều. Mỗi lần xe chúng tôi đi trên đường, giao thông của Indonesia kẹt xe rất nghiêm trọng, xe dừng lại nơi đó liền nhìn thấy người ăn xin. Người ăn xin họ xếp hàng rất có trật tự, tôi nhìn thấy người ăn xin, họ xin tiền người khác, xin được 10.000 đồng Indonesia, họ một ngày có thể xin được10.000 đồng, 10.000 đồng tương đương với 1 dola Mỹ. Một ngày họ sống không có vấn đề gì rồi. Họ không xếp hàng nữa, đi thôi, vị trí đó nhường lại cho người khác. Biết đủ! Tôi rất cảm động. Họ không xin thêm, cuộc sống ngày hôm nay tôi có thể giải quyết là được rồi, không cần đứng thêm ở đó mà xếp hàng nữa, không cần nữa. Nhân dân Indonesia hơn số nửa đều như vậy, công việc, sinh sống có thể sống được thì họ không muốn làm việc nữa, họ muốn đi chơi thôi, đến lúc không có tiền ăn cơm mới đi tìm công việc, làm việc một hai ngày, nên chủ thuê người, thuê họ thì tiền phát mỗi tuần một lần, họ không thể một tháng phát một lần, một tháng phát cho họ ít nhất hai tuần lễ họ đã không đến làm nữa rồi. Họ không đến nữa. Họ phải tiêu cho hết tiền, không còn nữa, họ mới trở lại. Đây là gì? Tri túc, cho nên họ thường lạc. Lạc của người Indonesia không phải là người ngoài có thể tưởng ra được, người bên ngoài là phải có quan cao, phải có tài sản mới vui, họ không phải vậy, họ không cần những thứ đó. Cho nên lạc thú của họ cổ nhân Trung Quốc có thể lãnh hội được, người hiện tại không lãnh hội được. Ngay cả việc họ ngày ngày ra đường xin ăn vẫn khoái lạc. Là một quốc gia thật hiếm có. Thông thường chúng ta thấy quốc gia này nghèo, quốc gia này lạc hậu, quí vị không biết người của quốc gia này thực sự an vui, ít muốn biết đủ. Người biết đủ tuy nghèo mà giàu.
Yen Vo viết
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT 🙏🙏🙏 trời cho con gặp được Ân sư đúng là Phước Đức lắm luôn, đúng là nghe ân sư giảng pháp hay gì đâu con xin cảm tạ
duong bui viết
A di đà phật
Vô thường viết
A Di ĐÀ PHẬT
Phòng chống trầm cảm và tự sát viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Điệp Nguyễn Bá viết
A Mi Đà Phật
A Mi Đà Phật
A Mi Đà Phật
Vĩnh Vô Tạp Niệm viết
A DI ĐÀ PHẬT 🙏🙏🙏.
Điệp Nguyễn Bá viết
A Mi Đà Phật
A Mi Đà Phật
A Mi Đà Phật
Vô thường viết
A Di Đà Phật
Vô thường viết
A Di Đà Phật
Vĩnh Vô Tạp Niệm viết
A DI ĐÀ PHẬT 🙏🙏🙏.
Minh Thiện viết
A DI ĐÀ PHẬT
Dao Duong viết
A DI ĐÀ PHẬT. A DI ĐÀ PHẬT. A DI ĐÀ PHẬT.
Thúy Đoàn viết
A DI ĐÀ PHẬT!🙏🙏🙏
Minh Thiện viết
A DI ĐÀ PHẬT
Vân Hồng viết
Nammo amidaphat
nuna v bts viết
A Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật a Di Đà Phật
Dung Minh viết
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG VƯƠNG PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Mộ Đạo viết
A di đà phật
Phuong Nguyen viết
A Di Đà Phật!
NIỆM PHẬT LÀ NHÂN
THÀNH PHẬT LÀ QUẢ.
Xin hãy thường nhớ Phật niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương thành Phật quả vĩnh viễn thoát ly khỏi nỗi khổ trầm luân trong luân hồi sanh tử tái sanh.